Trong
các kỹ thuật phân tích chiến lược kinh doanh một trong những mô hình
hay sử dụng là mô hình ma trận phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội,
nguy cơ (viết tắt là SWOT). Phương pháp này giúp ta có thể tổng hợp các
kết quả nghiên cứu môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp và đề
ra chiến lược một cách khoa học. Các bước xây dựng ma trận SWOT gồm các
bước sau:
+ Xác định điểm mạnh điểm yếu chính của Công ty và những cơ hội và nguy cơ mà Công ty gặp phải từ môi trường bên ngoài.
+ Đưa ra các kết hợp từng cặp logic.
+ Đưa ra sự kết hợp giữa bốn yếu tố (nếu có thể).
Phân tích điểm mạnh (Strengths).
Điểm
mạnh là tất cả những đặc điểm, việc làm đúng tạo nên năng lực cho Công
ty. Điểm mạnh có thể là sự khéo léo, sự thành thạo, là nguồn lực của tổ
chức hoặc khả năng cạnh tranh (giống như sản phẩm tốt hơn, sức mạnh của
nhãn hiệu, công nghệ kỹ thuật cao hoặc là dịch vụ khách hàng tốt hơn).
Điểm mạnh có thể là tất cả những kết quả của việc liên minh hay sự mạo
hiểm của tổ chức với đối tác có sức mạnh chuyên môn hoặc năng lực tài
chính- những thứ mà tạo nên khả năng cạnh tranh của Công ty.
Sức mạnh của Công ty có thể kể đến bao gồm các yếu tố sau:
+ Năng lực tài chính thích hợp.
+ Suy nghĩ tốt của những người mua.
+ Người lãnh đạo có khả năng
+ Những chiến lược được tính toán kỹ lưỡng.
+ Mối quan hệ với tổng thể nền kinh tế.
+ Công nghệ, sản xuất và quá trình hoạt động tốt.
+ Những lợi thế về giá.
+ Những chiến dịch quảng cáo tốt hơn
+Những kỹ năng sáng kiến sản phẩm
+ Quản lý chung và quản lý tổ chức tốt.
+ Những kỹ năng, kỹ thuật học cao hơn các đối thủ.
+ Hệ thống thông tin nhạy bén.
+ Sức mạnh nguồn lực của Công ty.
Trong
thực tế kinh doanh, có nhiều doanh nghiệp không biết tận dụng triệt để
mọi sức mạnh của mình, phân tích điểm mạnh của Công ty nhằm xác định xem
doanh nghiệp có lợi thế gì hơn so với đối thủ cạnh tranh, sử dụng có
hiệu quả lợi thế đó để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Phân tích điểm yếu (Weaknesses).
Điểm
yếu là tất cả những gì Công ty thiếu hoặc thực hiện không tốt bằng các
đối thủ khác hay Công ty bị đặt vào vị trí bất lợi. Điểm yếu có thể có
hoặc có thể không làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty mà tùy thuộc
vào việc có bao nhiêu điểm yếu thể hiện trong thị trường.
Các yếu tố thường được nói đến trong khi phân tích Marketing là:
+ Không có phương hướng chiến lược sáng sủa nào.
+ Những phương tiện, cơ sở vật chất lỗi thời.
+ Thiếu chiều sâu và tài năng quản lý.
+ Thành tích nghèo nàn trong việc thực hiện chiến lược.
+ Tụt hậu trong nghiên cứu và triển khai (R&D).
+ Chu kỳ sống của sản phẩm quá ngắn.
+ Hình ảnh của Công ty trên thị trường không phổ biến.
+ Mạng phân phối yếu kém.
+ Những kỹ năng tiếp thị dưới mức trung bình.
+ Không có khả năng huy động vốn khi cần thay đổi chiến lược.
+ Giá đơn vị hoặc giá toàn bộ sản phẩm, hàng hóa của Công ty cao hơn tương đối so với những đối thủ cạnh tranh.
Phân
tích điểm yếu của doanh nghiệp để thấy rằng hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được thực hiện chưa tốt, cần có những thay đổi
kịp thời. Doanh nghiệp phải khắc phục hoặc hạn chế điểm yếu của mình
trong thời gian trước mắt hay ít nhất là có kế hoạch thay đổi trong
tương lai. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng có những điểm yếu mà
doanh nghiệp có thể khắc phục được nhưng cũng có những điểm yếu mà doanh
nghiệp không thể khắc phục được hoặc có thể nhưng hiện tại chưa đủ khả
năng. Phân tích điểm yếu chính là để thực hiện thành công điều đó.
Phân tích cơ hội của doanh nghiệp (Opportunities).
Cơ
hội là sự xuất hiện những khả năng cho phép người ta làm một việc gì
đó. Trong thương mại, cơ hội thể hiện sự xuất hiện nhu cầu của khách
hàng và theo đó là việc xuất hiện khả năng bán được hàng để thoả mãn nhu
cầu của cả nhà sản xuất lẫn người tiêu thụ. Cơ hội xuất hiện ở khắp mọi
nơi, nó rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, dù một tổ chức có lớn đến
đâu cũng không thể khai thác tất cả các cơ hội xuất hiện trên thị trường
mà chỉ có thể khai thác được các cơ hội phù hợp với khả năng và mục
tiêu của mình. Mặt khác những cơ hội xuất hiện trên thị trường có thể có
lợi cho tổ chức này nhưng lại đem bất lợi cho tổ chức khác. Chính vì
vậy doanh nghiệp, tổ chức chỉ nên khai thác một hoặc một số những cơ hội
hiện có trên thị trường, đó là các cơ hội hấp dẫn.
Cơ
hội hấp dẫn trong thương mại là những khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của
khách hàng đã và sẽ xuất hiện trên thị trường được xem là phù hợp mục
tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp có đủ điều kiện thuận lợi để khai thác và vượt qua nó để thu lợi nhuận.
Cơ
hội Marketing là một nhân tố lớn trong hình thành chiến lược của Công
ty, người quản lý sẽ không thể đưa ra chiến lược đúng cho vị trí của tổ
chức mình nếu không nhận biết các cơ hội về sự tăng trưởng, lợi nhuận
tiềm tàng trong mỗi một cơ hội. Cơ hội có thể rất phong phú, dồi dào
nhưng cũng có thể rất khan hiếm, nắm bắt được cơ hội đó hay không phụ
thuộc vào mỗi doanh nghiệp riêng biệt. Cơ hội xuất hiện trên thị trường
có thể khái quát như sau:
+ Khả năng phục vụ những nhóm khách hàng bổ sung hoặc mở rộng thị trường mới hoặc từng phân đoạn mơi.
+ Những cách mở rộng hàng hoá, sản phẩm để thoả mãn rộng rãi hơn nhu cầu khách hàng.
+ Khả năng chuyển những kỹ năng hoặc bí quyết kỹ thuật học tới những sản phẩm mới hoặc những doanh nghiệp.
+ Việc phá bỏ hàng rào ra nhập những thị trường nội địa và nước ngoài.
+ Sự tự mãn của những đối thủ cạnh tranh.
+ Khả năng tăng thêm nhu cầu thị trường.
+ Nẩy sinh những công nghệ mới.
Phân
tích cơ hội là nhằm xác định đâu là cơ hội tốt, cơ hội hấp dẫn để từ đó
có những hướng triển khai nhằm khai thác nhanh và có hiệu quả hơn những
doanh nghiệp khác.
Phân tích nguy cơ (Threats).
Yếu
tố của môi trường bên ngoài gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó là những nguy cơ của môi trường.
Nguy cơ xuất hiện song song với cơ hội của doanh nghiệp, chi phối mạnh
mẽ mọi hoạt động của doanh nghiệp. Những nguy cơ có thể kể đến gồm:
+ Những đối thủ có giá thấp hơn.
+ Hàng hóa dễ có những sản phẩm thay thế.
+ Sự tăng trưởng thị trường chậm.
+ Chuyển đổi trong những chính sách thương mại, trao đổi với nước ngoài của các quốc gia.
+ Tính dễ bị tổn thương chu trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Sức mạnh những khách hàng hoặc những nhà cung cấp đang gia tăng.
+ Thay đổi nhu cầu của những người mua và sở thích của họ.
+ Thay đổi của nhân khẩu học...
Các
nguy cơ xuất hiện ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp, tổ chức,
họ chỉ có thể tránh những nguy cơ có thể xảy đến với mình và nếu phải
đối mặt với nó thì cố gắng giảm thiệt hại đến mức thấp nhất. Phân tích
nguy cơ giúp doanh nghiệp thực hiện những thay đổi, điều chỉnh cần thiết
đối với những thay đổi, biến động có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.
Các kết hợp chiến lược của S-W-O-T.
Sau
khi phân tích đầy đủ các yếu tố điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ ta
xây dựng các kết hợp chiến lược. Đầu tiên là sự kết hợp giữa điểm mạnh
và cơ hội (SO), mục tiêu của kết hợp này là sử dụng điểm mạnh của tổ
chức mình để khai thác có hiệu quả nhất cơ hội hiện có trên thị trường.
Sự kết hợp thứ hai là sự kết hợp giữa điểm yếu và cơ hội (WO), đây là
kết hợp nhằm tận dụng cơ hội để khắc phục điểm yếu. Thứ ba, sử dụng điểm
mạnh của mình để khắc phục hoặc hạn chế tổn thất do nguy cơ người ta
đưa ra kết hợp chiến lược điểm mạnh và nguy cơ (ST). Cuối cùng là kết
hợp (WT), kết hợp giữa điểm yếu và nguy cơ, đây là sự cố gắng lớn của
doanh nghiệp nhằm nâng cao sức mạnh của doanh nghiệp ở những khâu, những
bộ phận còn yếu kém và cố gắng khắc phục, hạn chế tổn thất do nguy cơ
gây ra.
Sự kết hợp tổng hợp của bốn yếu tố SWOT.
Sau
khi tiến hành kết hợp các chiến lược SW, SO, WT, WO công việc tiếp theo
là phải có sự kết hợp một cách tổng hợp của cả bốn yếu tố. Sự kết hợp
này sẽ đưa ra những nhận định mang tính khái quát cao, có ý nghĩa lớn
cho hoạch định chiến lược. Doanh nghiệp luôn tồn tại với những cơ hội,
nguy cơ ở môi trường bên ngoài, có những điểm mạnh nhưng đồng thời cũng
có những điểm yếu không thể tránh khỏi. Sự kết hợp SWOT thực sự là sự
kết hợp hoàn hảo giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội, lé tránh những nguy
cơ khắc phục điểm yếu và tận dụng triệt để sức mạnh của mình. Tuy vậy,
trong thực tế các doanh nghiệp thường bỏ qua bước này bởi lẽ việc đưa ra
kết hợp này là rất khó khăn nhiều khi không thực hiện được.
Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường trọng điểm của Công ty.
Phân đoạn thị trường.
Theo Mc Carthy: “ Thị
trường có thể được hiểu là các nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu
cầu tương tự nhau và người bán đưa ra những sản phẩm khác nhau với các
cách thức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đó ”.
Mỗi
một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều tiến hành xác
định cho mình thị trường để từ đó phân tích các yếu tố của nó như cung
cầu, giá cả, cạnh tranh. Điều này là cần thiết nhưng chưa đủ để doanh
nghiệp có thể tổ chức tốt quá trình kinh doanh của mình. Nếu chỉ dừng
lại ở việc mô tả thị trường trên giác độ kinh tế doanh nghiệp khó có khả
năng mô tả chính xác và cụ thể đối tượng tác động và các yếu tố chi
tiết liên quan. Đặc biệt là khó có thể đưa ra các công cụ điều khiển
kinh doanh có hiệu quả. Trong kinh doanh phải tiến hành mô tả thị trường
một cách cụ thể hơn từ góc độ kinh doanh của doanh nghiệp. Phân đoạn
thị trường là nhằm phân chia khách hàng thành các nhóm dựa trên một hoặc
một vài đặc tính chung và mỗi nhóm được coi là một đoạn của toàn bộ thị
trường.
Có
rất nhiều tiêu thức khác nhau để phân đoạn thị trường, mỗi doanh nghiệp
sẽ xác định cho mình những tiêu thức phân đoạn phù hợp với mặt hàng
kinh doanh và khả năng của mình. Các tiêu thức dùng để phân đoạn thị
trường thường được sử dụng:
+
Phân đoạn theo lợi ích, cơ sở để phân đoạn là lợi ích mà người tiêu
dùng tìm kiếm khi tiêu dùng một sản phẩm nhất định. Tiêu thức này cho
phép đo lường hệ thống giá trị và khả năng mua các nhãn hiệu sản phẩm
khác nhau trong một loại sản phẩm của người tiêu dùng.
+ Phân đoạn theo hành vi, tập trung vào các đặc tính của người tiêu dùng.
+
Phân đoạn theo tiêu thức dân số xã hội, các yếu tố của tiêu thức dân
số, xã hội bao gồm giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ, tôn
giáo... Đây là những tiêu thức phổ biến để phân đoạn thị trường và chúng
đã đem lại thành công hơn hẳn các tiêu thức khác nhất là trong phân
đoạn thị trường hàng tiêu dùng.
Trong
thực tế các doanh nghiệp đều sử dụng kết hợp nhiều tiêu thức khác nhau
khi tiến hành phân đoạn nhưng đối với một sản phẩm cụ thể và một thị
trường cụ thể thì chỉ có rất ít các tiêu thức có thể sử dụng. Cần phải
nói thêm rằng việc tiến hành phân đoạn thị trường là rất tốn kém và mất
thời gian, doanh nghiệp không nên phân đoạn thị trường nếu như việc phân
đoạn đó không đem lại hiệu quả nhưng nếu thị trường nhất thiết phải
phân đoạn mà doanh nghiệp lại không tiến hành thì việc kinh doanh chắc
chắn sẽ không thể thành công.
Lựa chọn thị trường trọng điểm.
Như
trên đã phân tích, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng bị giới hạn bởi
năng lực có hạn và sự khống chế của môi trường bên ngoài. Doanh nghiệp
sẽ không thể tham gia vào tất cả các đoạn thị trường ngay cả khi nhu cầu
của các phân đoạn này phù hợp với mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh
doanh. Điều này buộc các doanh nghiệp phải cân nhắc, tính toán lựa chọn
một đoạn thị trường thích hợp nhất. Thị trường trọng điểm hay thị trường
mục tiêu của doanh nghiệp là tập hợp các khách hàng có cùng nhu cầu và
mong muốn mà Công ty có thể đáp ứng tốt hơn các đối thủ cạnh tranh và có
khả năng khai thác tốt nhất. Những căn cứ để doanh nghiệp tiến hành lựa
chọn là:
+
Quy mô đoạn thị trường phải phù hợp với khả năng khai thác của doanh
nghiệp và có tốc độ tăng trưởng cao. Các chỉ tiêu phản ánh yếu tố này là
doanh số bán, tốc độ tăng doanh số, mức lãi và các yếu tố tác động đến
nhu cầu.
+
Những điều kiện thuận lợi và khó khăn cho kinh doanh trên các đoạn thị
trường đó. Nói cách khác đó là mức độ hấp dẫn của các đoạn thị trường,
mức độ cạnh tranh hiện tại và tiềm năng, sự đe doạ của các sản phẩm thay
thế...
+
Khả năng nguồn lực và mục tiêu kinh doanh của Công ty, doanh nghiệp sẽ
không lựa chọn thị trường trọng điểm đó nếu khả năng nguồn lực của doanh
nghiệp không cho phép hoặc không phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp.
Sau
khi lựa chọn thị trường trọng điểm từ những phân đoạn thị trường, doanh
nghiệp tiến hành xây dựng các chiến lược Marketing nhằm đáp ứng nhu cầu
khách hàng. Có ba cách tiếp cận thị trường trọng điểm của doanh nghiệp:
cách tiếp cận thị trường
đơn giản, cách tiếp cận thị trường phức tạp và cách tiếp cận thị trường
chấp nhận được, ứng với mỗi cách tiếp cận có thể đưa ra các chiến lược
Marketing: chiến lược Marketing tập trung, chiến lược Marketing phân
biệt và chiến lược Marketing không phân biệt.
Bảng 2: các cách tiếp cận thị trường trọng điểm
Mục tiêu Marketing của Công ty.
Các
mục tiêu Marketing thường được định hướng từ các mục tiêu của kế hoạch
chiến lược của tổ chức, trong trường hợp Công ty được định hướng
Marketing hoàn toàn, hai nhóm mục tiêu này trùng nhau. Trong các trường
hợp khác các mục tiêu cần được phân loại đo lường việc thực hiện chúng.
Các mục tiêu Marketing thường tuyên bố như là các tiêu chuẩn hoạt động
hoặc các công việc phải đạt được ở một thời gian nhất định. Các mục tiêu
Marketing phổ biến là:
+
Lợi nhuận thể hiện ở % doanh số hoặc một lượng tuyệt đối doanh nghiệp
dự định sẽ đạt được sau một thời gian thực hiện chiến lược Marketing.
+ Lượng bán, thể hiện ở thị phần doanh nghiệp dự định đạt được hoặc lượng bán tuyệt đối.
+ Số lượng cáởntung gian thương mại có tham gia tiêu thụ sản phẩm.
+ Nhận biết của người tiêu dùng và uy tín hình ảnh của sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường.
Tuỳ
từng giai đoạn trong quá trình kinh doanh mà hoạt động Marketing tập
trung vào những mục tiêu quan trọng cụ thể. Tất nhiên, theo quan điểm
Marketing nhấn mạnh đến các mục tiêu dài hạn và bao trùm là lợi nhuận
chứ không phải lượng bán. Các mục tiêu này cung cấp khuôn khổ cho kế
hoạch Marketing.
Xác định vị trí và sự khác biệt của doanh nghiệp.
Bất
kỳ doanh nghiệp nào tồn tại trên thị trường đều có vị trí nhất định,
doanh nghiệp có thể là doanh nghiệp dẫn đầu thị trường, có thể là doanh
nghiệp thách thức thị trường những cũng có thể là doanh nghiệp nép góc
đi theo. Nhưng các doanh nghiệp luôn cố gắng tạo cho mình sự khác biệt,
chính sự khác biệt này sẽ giúp doanh nghiệp thu hút khách hàng và tạo
cho mình một chỗ đứng nhất định trong thị trường. Hơn nữa, vị trí của
các doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau là khác nhau, doanh
nghiệp này có thể đứng đầu một thị trường này nhưng lại là doanh nghiệp
nép góc ở thị trường khác. Vì vậy khi xác định vị trí của một doanh
nghiệp cần quan tâm đâu là thị trường trọng điểm của doanh nghiệp đó và
doanh nghiệp đó có sự khác biệt gì so với các đối thủ cạnh tranh mà nhờ
đó mà vị trí của họ sẽ được cải thiện.
Xác
định vị trí và sự khác biệt của một doanh nghiệp có ý nghĩa quan trong
trong việc hình thành chiến lược, tùy theo vị trí và sự khác biệt của
doanh nghiệp đó mà có những chiến lược Marketing khác nhau. Nếu không
xác định được các yếu tố này thì chiến lược Marketing sẽ không đem lại
hiệu quả thậm chí còn dẫn đến sai lệch trong định hướng kinh doanh.
Xây dựng chiến lược Marketing mix hướng tới thị trường trọng điểm.
Bây
giờ đã đến lúc doanh nghiệp cần hoạch định rõ ràng Marketing mix cho
các đoạn thị trường của mình. Nghĩa là doanh nghiệp phải xác định hỗn
hợp các biện pháp Marketing cụ thể sẽ sử dụng để tác động vào thị trường
mục tiêu. Cụ thể, nhà quản trị phải xác định nội dung của 4 Ps trong
Marketing mix. Các nhóm biện pháp được phối hợp với nhau trong một
chương trình Marketing trong đó xác định ngân sách đầu tư cho từng biện
pháp, thời gian thực hiện và con người chịu trách nhiệm thực hiện từng
biện pháp.
Sản phẩm.
“ Sản
phẩm của doanh nghiệp nên được hiểu là một hệ thống thống nhất các yếu
tố có liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm thoả mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm sản phẩm vật chất, bao bì, nhãn hiệu, dịch vụ và cách thức bán hàng ”.
Hiểu
và mô tả đúng sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra bán trên thị trường là
một trong những nhiệm vụ trung tâm của hệ thống Marketing hỗn hợp ở
doanh nghiệp. Xác định đúng sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến khả năng khai
thác cơ hội kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa. Mô tả sản phẩm không chỉ
dừng lại ở việc đánh giá công dụng của sản phẩm, hình thức bao gói nhãn
hiệu mà cần phải xác định thị trường cho sản phẩm đó, vạch ra chính sách
chủng loại hợp lý. Mô tả sản phẩm là phải theo dõi cả những hiện tượng
không đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng, nghiên cứu và hoàn thiện hơn
nữa bao gói và các dịch vụ kèm theo. Không chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu sản phẩm hiện tại các nhà quản trị cần phải nghiên cứu hướng phát
triển sản phẩm trong tương lai, xác định những khả năng tiêu thụ sản
phẩm mới, đề xuất những kiến nghị về chế tạo sản phẩm mới.
Trong
chiến lược Marketing việc nghiên cứu chu kỳ sống và phân lớp hàng hóa
đóng vai trò quan trọng vì căn cứ vào những yếu tố này mà doanh nghiệp
có thể đề ra những chiến lược Marketing hợp lý. Đối với chu kỳ sống của
sản phẩm, việc xác định xem sản phẩm của doanh nghiệp trong thị trường
hiện hữu đang nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ sống là cần thiết để
xác định doanh nghiệp sẽ áp dụng chiến lược nào: dưới đây là các phương
án Marketing theo chu kỳ sống của sản phẩm:
Sơ đồ 2. Chu kỳ sống của sản phẩm.
Giá của sản phẩm, hàng hóa.
Giá
là một trong bốn tham số cơ bản của Marketing hỗn hợp. Trong kinh doanh
giá là công cụ có thể kiểm soát vì thế doanh nghiệp cần sử dụng một
cách khoa học để thực hiện các mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh doanh.
Các quyết định về giá có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp, từ việc đặt kế hoạch kinh doanh đến mua sắm, bán
hàng, chi phí và lợi nhuận.
Trong
nghiên cứu kinh tế giá được hiểu là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hóa. Trong kinh doanh và quản trị giá được hiểu đơn giản hơn: giá
là khoản tiền phải bỏ ra để lấy một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đấy. Thông
thường giá là một yếu tố rất nhạy cảm trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động thương mại nói riêng bởi giá có liên quan đến lợi ích
cá nhân có tính mâu thuẫn giữa người mua và người bán. Trong Marketing,
nghiên cứu giá cả là phải kiểm soát được các yếu tố chi phí, phân tích
diễn biến của chi phí cố định và cho chi phí biến đổi trong mối tương
quan với khối lượng sản xuất ra hoặc mua về. Doanh nghiệp không chỉ xem
xét tính chất một chiều của giá mà phải nghiên cứu cả mối quan hệ hữu cơ
của giá với các yếu tố khác như sản phẩm, thị trường, vị thế... Điều
đặc biệt quan tâm khi tiến hành đặt giá là xác định mục tiêu của việc
định giá. Mục tiêu của doanh nghiệp phần nào được thể hiện bởi mục tiêu
định giá. Doanh nghiệp có thể có các mục tiêu lợi nhuận đã định sẵn, tối
đa hóa lợi nhuận, mục tiêu doanh số bán...
Căn
cứ vào việc phân tích cấu thành giá và các mục tiêu định giá doanh
nghiệp tiến hành xây dựng các chính sách đặt giá, xây dựng các mức giá
dự kiến, tiến hành phân tích hoà vốn để chỉ ra đâu là sản phẩm có triển
vọng tiêu thụ nhất. Doanh nghiệp cần phải tiến hành thực hiện các chính
sách giá phân biệt để khai thác tối ưu các đoạn thị trường.
Phân phối và địa điểm.
Để
bán tốt doanh nghiệp cần phải thoả mãn thật nhiều yêu cầu đặt ra từ
phía khách hàng. Ngày nay khi đời sống của nhân dân được nâng cao, lối
sống công nghiệp đã ăn sâu vào tất cả tầng lớp nhân dân, khách hàng cần
không chỉ sản phẩm với giá đúng, sản phẩm tốt mà còn cần đáp ứng được
thời gian đúng và địa điểm đúng. Địa điểm và hoạt động phân phối là nội
dung hết sức quan trọng trong mà hệ thống Marketing doanh nghiệp cần
giải quyết tốt trong chiến lược Marketing của mình. Địa điểm một phần
quyết định các hoạt động phân phối và khả năng bán được hàng của doanh
nghiệp. Vậy phân phối hàng hóa, hiện vật là quá trình điều phối, vận
chuyển và dự trữ hàng hóa dưới dạng hiện vật vào kênh phân phối của
doanh nghiệp sao cho đảm bảo quá trình lưu chuyển hàng hóa đến người
tiêu dùng đem lại hiệu quả nhất.
Công
việc đầu tiên của hoạch định chiến lược Marketing đối với tham số phân
phối đó là lựa chọn địa điểm, địa điểm ở đây là nơi mà doanh nghiệp cung
cấp cho khách hàng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp. Lựa chọn địa
điểm được tiến hành theo hai tiêu thức: theo tiêu thức địa lý, tức là vị
trí mà doanh nghiệp tiến hành phân phối và theo tiêu thức khách hàng,
tức là ai sẽ là người nhận sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp.
Sau
khi xác định được địa điểm, căn cứ vào sản phẩm và chủng loại sản phẩm,
căn cứ vào khách hàng, khả năng doanh nghiệp và các điều kiện liên quan
khác doanh nghiệp cần thiết lập cho mình một kênh phân phối hoàn chỉnh.
Các kênh phân phối thường được sử dụng đó là kênh phân phối gián tiếp
và kênh phân phối trực tiếp. Tuy nhiên trong thực tế các doanh nghiệp
thường phối hợp sử dụng đồng thời của cả hai loại kênh này.
Sơ đồ 3. Kênh phân phối hỗn hợp.
Việc
cuối cùng là tiến hành tổ chức và điều khiển quá trình phân phối hiện
vật, đây là quá trình xác định các kế hoạch và tổ chức thực hiện kế
hoạch đảm bảo nguồn cung cấp hàng hóa cho các kênh phân phối của doanh
nghiệp. Các nhà quản trị
phải luôn luôn quan tâm đến Lĩnh vực này để đảm bảo rằng giao đúng thời
gian, địa điểm và người nhận nhưng lại giảm thiểu các chi phí phát sinh
trong quá trình thực hiện. Phân phối hàng hóa cũng đồng thời phải tiến
hành xây dựng kế hoạch dự trữ sao cho doanh nghiệp luôn có hàng để bán
nhưng không gây tồn đọng, ách tắc. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải chú ý
đến các mối quan hệ về sở hữu, về lợi ích, hợp tác về thông tin trong
hệ thống kênh phân phối, các điểm bán hàng.
Xúc tiến hỗn hợp.
Xúc
tiến thương mại là các hoạt động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội mua
bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại. Xúc tiến thương mại có hai
loại xúc tiến mua và xúc tiến bán hàng, trong phạm vi bài viết này chỉ
đề cập đến xúc tiến bán hàng. Thúc đẩy hoạt động bán hàng là hoạt động
vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp thương mại vì sản phẩm tốt
với giá cả phải chăng, mạng lưới bán hàng rộng khắp nhưng khách hàng lại
không biết đến sản phẩm đó hoặc chưa đặt niềm tin cho sản phẩm của Công
ty thì việc bán hàng chắc chắn gập khó khăn. Bên cạnh đó sức mua của
khách hàng tăng nếu như ta cung cấp một lợi ích nhất định cho khách hàng
hoặc bằng cách nào đó làm thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Ta có
thể hiểu xúc tiến bán hàng là các hoạt động có chủ đích trong lĩnh vực
Marketing của các doanh nghiệp thương mại nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội
bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại.
Xúc
tiến bán hàng là một trong bốn nội dung cơ bản của xúc tiến nói chung
nhưng nó cũng là một tham số của Marketing mix được ứng dụng trong kinh
doanh thương mại. Xúc tiến thương mại bao gồm các nội dung sau:
+ Quảng cáo :
là hành vi thương mại của thương nhân nhằm giới thiệu hàng hóa, dịch vụ
để xúc tiến bán hàng. Trong hoạt động kinh doanh thương mại, quảng cáo
được coi là phương tiện để bán hàng, phương tiện để tích luỹ tài sản vô
hình cho doanh nghiệp và phương tiện để nắm phản ứng khách hàng về các
sản phẩm kinh doanh, đồng thời quảng cáo chính là công cụ của Marketing
thương mại.
+ Khuyến mại :
là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung
ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách dành
những lợi ích nhất định cho khách hàng. Khuyến mại được thực hiện dưới
các hình thức giảm giá, phiếu mua hàng, trả lại cho khách hàng một phần
tiền, chiết giá, các cuộc thi cá cược, trò chơi có thưởng, phần thưởng
cho các khách hàng thường xuyên, quà tặng, tặng vật phẩm mang biểu tượng
quảng cáo...
+ Tham gia hội chợ và triển lãm :
Hội chợ thương mại là xúc tiến thương mại tập trung trong một thời gian
và một địa điểm nhất định, trong đó tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh
được trưng bày hàng hóa của mình nhằm mục đích tiếp thị, ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa. Triển lãm thương mại là xúc tiến thương mại thông
qua việc trưng bày hàng hóa, tài liệu về hàng hóa để giới thiệu, quảng
cáo nhằm mở rộng và thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa.
+ Bán hàng trực tiếp: là
hành vi thương mại của thương nhân, là sự giao tiếp trực tiếp giữa
người bán hàng với khách hàng tiềm năng. Trong đó, người bán hàng có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu cho người mua hàng và nhận tiền.
+ Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác: Quan
hệ công chúng là những hoạt động nhằm tuyên truyền giới thiệu với các
giới dân chúng khác nhau ở trong và ngoài nước. Các hoạt động quan hệ
công chúng mà các doanh nghiệp thương mại thường dùng như tổ chức họp
báo, hội thảo khách hàng, quan hệ cộng đồng, hoạt động tuyên truyền
thông qua các tạp trí doanh nghiệp. Các hoạt động khuyếch trương khác
thường dùng như: hoạt động từ thiện, hoạt động tài trợ. Các quan hệ này
giúp doanh nghiệp xây dựng hình ảnh tốt đẹp trước con mắt khách hàng
hoặc dành quyền quảng cáo.
Nguồn : học viện tài chính

No comments:
Post a Comment